Thanh Điền (sinh năm 1947) là một nghệ sĩ nổi tiếng tại Việt Nam. Ông là một diễn viên cải lương, diễn viên điện ảnh và là một đạo diễn sân khấu, một nhiếp ảnh gia. Ông đã được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Vợ ông, Thanh Kim Huệ, cũng là một nghệ sĩ và cũng được phong tặng danh hiệu cao quý này.
Ông tên thật là Nguyễn Thanh Điền, còn có tên là Nguyễn Ngọc Chiếu, sinh năm 1947 tại Vị Thanh, Chương Thiện (nay thuộc thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang), trong một gia đình có 9 anh em. Tuy cha ông, ông Nguyễn Thành Long, là một nghệ sĩ đờn ca tài tử, thân mẫu, bà Nguyễn Thị Tâm, là một võ sư, đều không muốn con cái theo nghiệp của 2 người, nhưng lại có nhiều ảnh hưởng đến sự nghiệp của con. Về sau, trong gia đình có ba người con theo nghề hát, ngoài Thanh Điền còn có hai em gái Hà Mỹ Liên (tên thật là Nguyễn Thị Thu Hà), Hà Mỹ Xuân (tên thật là Nguyễn Thị Xuân).
Sinh ra và lớn lên trong thời gian chiến tranh, gia đình ông thường xuyên phải chạy loạn nhiều nơi trước khi định cư hẳn ở Long Xuyên.
Bước đầu sự nghiệp
Tuy bị sự ngăn cản của song thân, nhưng ảnh hưởng của 2 người lại giúp cho ông sớm có sự đam mê cũng như những tố chất nghề diễn. Khi gia đình định cư tại Long Xuyên, ông trốn gia đình học nghề từ danh ca Ngọc Ẩn, người được mệnh danh là "Đệ nhất danh ca miền Tây" lúc đó. Năm 1959, ông bắt đầu bước vào nghề diễn khi mới 12 tuổi.
Trong nghiệp diễn của mình, ông học hỏi nhiều nghệ sĩ nổi tiếng thời bấy giờ như Trường Xuân, Hoàng Giang, Việt Hùng, Minh Chí, Hữu Phước, Hùng Minh, Diệp Lang... Ông dần có được tên tuổi khi giữ vai trò kép độc mùi qua nhiều đoàn lớn như Hương Mùa Thu, Hoa Thế Hệ, Sao Ngàn Phương, Kim Chung v.v… qua các vở: Nhất kiếm bá vương (vai Tống Từ Ly), Chiều thu sầu ly biệt (vai Hắc Vạn), Kiếp nào có yêu nhau (vai Thành Cát Tư Hãn) v.v…
Năm 1969, ông tham gia đoàn hát Hoa Phượng của Bầu Trung. Trong một lần đi lưu diễn, đoàn gặp tai nạn lật ghe ở gần phà Vàm Cống. Ông đã dũng cảm cứu sống được nhiều người, trong đó có một cô đào non mới 14 tuổi tên Bùi Thị Huệ, người về sau trở thành bạn đời của ông.
Duyên phận trăm năm
Sau tai nạn này không lâu, đoàn Hoa Phượng tan rã. Ông cùng một số diễn viên còn lại của đoàn sang gia nhập đoàn Kim Chung 2 năm 1970. Năm 1974, ông thành lập gánh hát Xuân Liên Hoa[6]. Người bạn gái và bạn diễn cũ là Thanh Kim Huệ cũng theo về làm đào chánh. Ông bà thành hôn với nhau đầu năm 1975.
Huyện Trìa (Thanh Điền) và Thị Hến (Thanh Kim Huệ) năm 1982
Sau năm 1975, ông bà tiếp tục tham gia các đoàn cải lương Sài Gòn 2, 3, 1, Văn công Thành phố Hồ Chí Minh, Nhân dân Kiên Giang. Đặc biệt, với vai diễn Huyện Trìa (Thanh Điền) và Thị Hến (Thanh Kim Huệ) trong vở chuyển thể cải lương Ngao Sò Ốc Hến năm 1982, ông bà đã ghi danh những vai diễn đặc biệt nhất của lịch sử cải lương.
Cũng trong thập niên 1980, ông trở thành một trong những thành viên nòng cốt của đoàn Cải lương Sài Gòn 1 và bắt đầu tham gia làm đạo diễn. Trong giai đoạn thoái trào của cải lương, ông bà còn mở tiệm nhiếp ảnh để sinh kế. Dù vậy, ông bà vẫn chung thủy với nghệ thuật cải lương, mở rộng vai trò tác giả kịch bản (Thanh Kim Huệ) và đạo diễn (Thanh Điền). Ghi nhận công lao của ông bà, nhà nước Việt Nam đã phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Trong Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc 1990, ông được tặng Huy chương vàng với vở "Đêm trắng" (vai diễn Bác Hồ) và trong Hội diễn SKCNTQ 1995, ông lại được tăng Huy chương vàng với vở "Nước mắt đen". Tại Liên hoan truyền hình toàn quốc năm 2003, ông bà đều được tặng Huy chương vàng trong vở "Khúc ly hương" với vai trò diễn viên chính (Thanh Điền) và tác giả (Thanh Kim Huệ).
Gia đình
Ông bà kết hôn vào dịp Tết năm 1975 và có với nhau 2 người con là Nguyễn Đăng Quang (con trai, sinh năm 1977) và Nguyễn Đức Hồng Loan (con gái, sinh năm 1986).
Source: wikipedia |
|